Sau năm 1954, dân số Hà Nội tăng cao, xe buýt nội thành ra đời, trở thành phương tiện giao thông công cộng phổ biến bên cạnh hệ thống xe điện Pháp để lại.
Xe buýt lần đầu tiên xuất hiện ở Hà Nội là vào năm 1919, với 4 chiếc xe hiệu GM của Mỹ được đưa vào hoạt động. Nơi đón trả khách lúc đó là bến cột đồng hồ ngay gần cầu Long Biên. Tài xế xe là người Việt Nam đi lính thợ cho quân đội Pháp trong thế chiến I có bằng lái xe do chính phủ Pháp cấp.
Hình bên trên là bến xe buýt/xe đò đầu tiên của Hà Nội, ảnh chụp năm 1926. Đây là Quảng trường cột đồng hồ trên Bến Clémenceau (nay là đường Trần Nhật Duật – Trần Quang Khải). Bến xe nằm phía trước cột đông hồ. Bìa trái là Phố Hàng Muối, giữa hình là Rue Maréchal Pétain (nay là phố Nguyễn Hữu Huân).
Một số hình ảnh khác của bến xe này:
Xe đò của hãng CHAPELON Cie. chay tuyến: HANOI VILLE – BẮC NINH – ĐÁP CẦU – SEPT PAGODES (chữ trên xe bên trái). Sept Pagodes là thị trấn Phả Lại, tỉnh Hải Dương ngày nay
Chữ trên xe bên phải: Hanoi – Bắc Ninh – Sept Pagodes – Đáp Cầu – Bắc Giang – Kép
Xe đò tuyến Phủ Lạng Thương – Đáp Cầu – Bắc Ninh – Hanoi
Thời gian sau đó số lượng xe tăng nhanh, bến cột đồng hồ trở nên chật trội nên hội đồng thành phố quyết định chuyển bến ra chỗ chuyên bán Nứa (cách cột đồng hồ không xa về phía bắc) vì vậy mới có tên bến Nứa. Ba hãng xăng là Shell, Socony và Texaco (của Mỹ) mở điểm bán xăng và Texaco đã giành được quyền tài trợ xây nhà bán vé khang trang, trên nóc nhà bán vé có cột hình vuông 4 mặt có tên Texaco.
Theo tạp chí “Tự nhiên” xuất bản bằng tiếng Pháp năm 1926 phát hành tại Hà Nội thì năm 1925, trung bình một ngày có 4 xe tải, 166 xe ô tô con và 79 lượt xe buýt qua lại cầu Long Biên.
Từ bến Nứa, hằng ngày có xe đi Hưng Yên, Sơn Tây, tuyến ngắn chạy đến Chèm. Khách chủ yếu là người buôn bán và các chức dịch nông thôn đi Hà Nội sắm hàng hóa. Đi Sơn Tây có 4 hãng lớn gồm: Tư Đường, Chí Thành, Mỹ Lâm và Larriveé (chủ Pháp). Tuyến đi Hưng Yên thì thống soái là hãng Con Thỏ. Chủ là Lê Hữu Luân, ông này xuất thân là thợ mộc rong, nhà xe Bảo Ký thấy nhanh nhẹn cho làm nhân viên đứng đón khách ở bến rồi Luân tố cáo ngầm một phụ xe không chăm khách nên được cất nhắc lên làm phụ xe và sau đó đi học lái. Nhờ tiêu pha tằn tiện, ông Luân mua được chiếc xe cũ tự chạy và dần dần bứt lên làm chủ hãng với 29 chiếc.
Phía Nam Hà Nội có bến Kim Liên, vốn trước đó là chợ của làng Kim Liên. Bến mở vào những năm cuối thập niên 1920, ban đầu nằm gần Cửa Nam cản trở giao thông nội đô nên hội đồng thành phố quyết định chuyển xuống Kim Liên. Bến này có xe tuyến dài đi Nam Định, Thái Bình, tuyến ngắn đi Phủ Lý, Thường Tín, Văn Điển và Ngọc Hồi. Phía tây có bến Kim Mã, trước đó vốn là hồ ao sau thành phố mở mang đã cho lấp hồ, bến hình thành cũng vào cuối thập niên 1920, chuyên chở khách đi Sơn Tây, Hòa Bình, tuyến ngắn đi Hà Đông và Ba La.
Thời điểm này, bắt đầu có xe chạy Bắc – Nam. Bên dưới là hình ảnh xe đò Hà Nội – Sài Gòn, hình chụp ở Nha Trang vào thập niên 1920:
Xe buýt thời Pháp chỉ có một cửa lên xuống ở phía sau. Ban đầu có 2 hàng ghế gỗ sát thành xe như ghế tầu điện và tầu hỏa ở giữa là chỗ đi lại. Nhưng sau đó nhận thấy để ghế dọc chở ít khách nên các hãng xe cải tiến thành ghế ngang chở được nhiều khách hơn, trung bình mỗi xe chở khoảng 30 khách. Năm 1930, cả Bắc Kỳ có gần 5.000 xe các loại trong đó có 405 xe buýt nhưng tập trung chủ yếu ở Hà Nội, số xe ở Hải Phòng bằng một phần ba Hà Nội.
Sau năm 1954, dân số Hà Nội tăng cao, xe buýt nội thành ra đời, trở thành phương tiện giao thông công cộng phổ biến bên cạnh hệ thống xe điện Pháp để lại.
Năm 1957, nhiều người miền Nam tập kết ra Hà Nội, nhu cầu đi lại tăng cao, Ban Thống nhất trung ương quyết định cấp vốn mua 10 ô tô khách và cho ra đời Tập đoàn ô tô buýt Thống Nhất phục vụ đi lại của cán bộ và nhân dân. Tháng 2/1958 mở tuyến Kim Liên – Hà Đông. Đến tháng 12/1962, Xí nghiệp xe khách Thống Nhất thành lập, phục vụ giao thông công cộng của thành phố với 192 xe gồm 4.106 ghế.
Năm 1959, Hà Nội có gần 800 xe lớn nhỏ gồm cả chở khách và chở hàng hóa. Năm 1960, thì 95% số ô tô được công tư hợp doanh và Hà Nội tiến hành nhập 2 xí nghiệp công tư hợp doanh thành Xí nghiệp xe khách Hà Nội, chủ yếu chạy đường dài đi các tỉnh, đỗ ở ba bến xe: Bến Nứa, Kim Mã và Kim Liên.
Đến tháng 12-1962, Xí nghiệp xe khách Hà Nội và Tập đoàn xe buýt Thống Nhất hợp nhất thành Xí nghiệp xe khách Thống Nhất phục vụ giao thông công cộng của thành phố với 192 xe; 4.106 ghế. Xe buýt hay ô tô buýt là mượn từ tiếng Pháp autobus chỉ xe chở mọi người. Thời Pháp thuộc vẫn gọi là xe buýt dù xe tuyến ngắn hay tuyến dài, nhưng đến chế độ mới thì xe đường dài và khách được mang theo hàng hóa gọi là xe khách còn xe chạy tuyến ngắn và khách chỉ được mang đồ đạc gọn nhẹ gọi là xe buýt.
Xe buýt nhanh chóng trở thành phương tiện chủ yếu của cán bộ công nhân viên chức đi làm, học sinh – sinh viên đi học. Năm 1964, đã có 903 khách mua vé tháng. Cuối năm 1965, Hà Nội có tới 300 xe buýt, với 8 tuyến. Giá vé đồng hạng ở tất cả các tuyến, do thành phố bù lỗ nên giá vé rất rẻ nên rất đông, vì nhiều người bỏ xe điện đi xe buýt cho nhanh. Thế nên mới xảy ra cảnh chen lấn, móc túi và không còn thấy nét văn hóa người trẻ nhường chỗ cho người già.
Trước 1975, xe buýt Hà Nội chủ yếu là xe Hải Âu (nhập nguyên chiếc từ Liên Xô dòng xe PAZ-672), và một ít xe Lviv của Ukraine (Liên Xô). Sau năm 1978 có thêm xe Karosa của Tiệp Khắc và một vài xe của Renault của Pháp.
Thời điểm thập niên 1980 trở về sau, xe khách phổ biến nhất là xe Ba Đình, do xí nghiệp ô tô Hòa Bình đóng với bộ khung và máy dầu IFA W50 của Đông Đức, khi chạy tiếng nổ to phành phạch, khói phả mịt mù như lò gạch di động. Xe này hay bị chết máy khi dừng, nên hành khách đi thường xuyên xuống đẩy xe để lấy đà nổ máy.
Hình ảnh xe buýt Hải Âu trên đường phố Hà Nội:
Hình ảnh xe khách Ba Đình:
Thời xưa người đi xe buýt rất đông, nên xe thường xuyên bỏ trạm vì khách đã quá đông. Dù theo lịch 30 phút có một chuyến, nhưng có khi vào tiếng đồng hồ mới bắt được xe buýt.
Xe buýt nội đô chở khách kiêm cả chở quang gánh, thúng mủng. Những năm ấy ai đi tuyến Cầu Bươu (Thanh Trì) – Bờ Hồ thì thấy cảnh sáng sớm các xe chất đầy quang gánh thúng mủng của dân bán rượu nếp, bánh cuốn, miến… quang gánh treo ngoài chưa hết, nhét cả vào trong xe, khách ngồi luôn vào thúng hoặc chui lọt thỏm vào đôi quang gánh để dưới sàn xe.
“Lịch sự” hơn một chút là các xe thuê chuyến chở cán bộ công nhân viên đi làm, tuy không có quang gánh nhưng khách nhồi nhét đông, người nọ ép chặt người kia vào nhau như “cá hộp” làm những chiếc cập lồng cơm bẹp dúm. Trên các xe ấy nạn rạch túi, trộm cắp hoành hành táo tợn, và cả những trò xàm sỡ trên xe.
Cuộc sống ngày càng phát triển, phương tiện đi lại ngày càng dễ dàng hơn. Nhưng nhớ lại để thấy từng có một thời chỉ trên cái xe buýt mà đã lắm chuyện bi hài.